Hỏi: Giải đáp 06 vướng mắc về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

Trả lới: 

 

Ngày 13/9/2019, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 212/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử.

Theo đó, giải đáp 06 vướng mắc về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự tại Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể như sau:

01. Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi thu được từ việc cho vay hay là khoản tiền lãi thu được sau khi trừ đi tiền lãi theo quy định của Bộ luật Dân sự?

=> Theo quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 thì: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay".

Do đó, khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là số tiền lãi thu được sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự.

       Hình ảnh minh họa.

02. Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án là tổng so tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay hay so tiền lãi thu được của từng người vay?

=> Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay, nếu hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian. 

Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.

03. Khoản tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu được từ việc cho vay lãi nặng bị tịch thu sung công hay trả lại cho người vay?

=> Theo quy định tại đoạn 2 Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015 thì:

“Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quỵ định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”.

Do đó, khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm là khoản tiền mà người phạm tội thu lợi bất chính của người vay nên được trả lại cho người vay tiền, trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy...) thì khoản tiền thu lợi bất chính bị tịch thu sung công quỹ nhà nước.

       Hình ảnh minh họa.

04. Khoản tiền người phạm tội dùng để cho vay và khoản lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm có xác định là phương tiện phạm tội đế tịch thu sung quỹ nhà nước hay trả cho người phạm tội?

=> Đối với khoản tiền cho vay (tiền gốc) được xác định là phương tiện phạm tội, nên bị tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm tuy không bị tính khi xác định trách nhiệm hình sự, nhưng đây cũng là khoản tiền phát sinh từ tội phạm, đồng thời hoạt động cho vay lãi nặng thường gắn với các băng nhóm tội phạm. Do đó, để bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án phải tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước khoản tiền này.

05. Người vay tiền trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự tham gia tố tụng với tư cách là bị hại hay là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan?

=> Theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì người vay tiền trong trường hợp này tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

06. Trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự có bắt buộc phải trưng cầu giám định về tiền lãi không?

=> Tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP ngày 13-12-2017 quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế thì việc xác định tiền lãi, tiền lãi nặng trong vụ án này không thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tư pháp.

Công văn này đồng thời hướng dẫn cách thức giải quyết khi gặp vướng mắc trong quá trình xét xử đối với một số tội phạm khác như tội cướp tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội,...